tru tien p3 Chiếc Intruder nhận được tên gọi mới '''A-6A''' theo Hệ thống Định danh máy bay Thống nhất các binh chủng Hoa Kỳ (1962) của Bộ Quốc phòng vào năm 1962, và được đưa vào hoạt động tại các phi đội vào tháng 2 năm 1963. Chiếc A-6 trở thành máy bay tấn công tầm trung và tấn công ban đêm hay trong mọi thời tiết chủ yếu của Hải quân và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ từ giữa Thập niên 1960 đến Thập niên 1990 và như là một máy bay tiếp dầu trên không cả trong phiên bản chuyên dụng KA-6D hay dùng kỹ thuật buddy (bạn bè) tự tiếp dầu trên không (D-704). Vai trò này trong Không quân được đảm nhiệm bởi chiếc F-105 Thunderchief và sau này là F-111 mà sau đó được chuyển đổi sang kiểu máy bay gây nhiễu radar dưới tên gọi EF-111 Raven. Chiếc A-6 tham gia chiến đấu trong Chiến tranh Việt Nam và trong các cuộc xung đột tại Liban và Libya. Chiếc Intruder cũng có các vai trò khác trong Chiến dịch Bảo táp Sa mạc vào năm 1991, cũng như tại Bosnia vào năm 1994, nhưng chúng được nhanh chóng rút khỏi phục vụ vào giữa những năm 1990 khi Hải quân tiến hành giảm bớt chủng loại máy bay trong các phi đoàn trên tàu sân bay. Đã có dự định thay thế nó bằng kiểu A-12 Avenger II, nhưng chương trình bị hủy bỏ. Chiếc Intruder được giữ lại hoạt động thêm vài năm trước khi được nghỉ hưu và thay thế bằng chiếc F-14 Tomcat được trang bị hệ thống LANTIRN (hệ thống dẫn đường và tìm mục tiêu tầm thấp ban đêm bằng hồng ngoại), rồi đến lượt chúng được thay thế bằng chiếc F/A-18E/F Super Hornet. Nhiều câu hỏi đã đặt ra khi chuyển đổi sang một thế hệ máy bay tấn công có tầm hoạt động ngắn hơn so với thế hệ cũ. Tuy nhiên, sự có mặt của các máy bay tiếp dầu Không quân trong mọi xung đột gần đây làm giảm bớt sự phụ thuộc vào tầm bay xa tự có của máy bay. Enhance your purchase with Clyde protection
4 interest-free payments of $504.4352 with Klarna. Learn More